K6 - Một thời Tranh - Nứa Một thời để nhớ

Xin chào và chúc sức khỏe toàn bộ các anh chị, các bạn sinh viên khóa 6 trường Đại học Cơ Điện và mọi người từng trải qua mái trường thân yêu ấy!
Xin cảm ơn mọi đóng góp ý kiến, bài vở, hình ảnh để "Hội K6 Cơ Điện" là nơi thân thiết của mỗi cựu SV K6I - K6MA - K6MB - ... thuở ban đầu 1970!
Blog chào mừng cựu sinh viên các khóa khác nhau của ĐH Cơ Điện vào thăm và cùng xây dựng Hội K6 Cơ Điện thành "sân chơi" chung của chúng ta!
Mời các anh chị và các bạn chưa quen blog nhấn vào đây . Các bạn cũng nên ghi nhớ địa chỉ blog dự phòng: http://k6bc11r.wordpress.comBan biên tập - K6BC11R Ban biên tập - K6BC11R Ban biên tập - K6BC11RBan biên tập - K6BC11RBan biên tập - K6BC11R -------- Email: k6bc11r@gmail.com

14 tháng 10, 2015

BIÊN NIÊN SỬ K6I ĐHCĐ (10/1970-9/1972)



QUA NHẬT KÝ CỦA TRẦN MINH HẢI

 BBT K6: BBT nhận được bản đã chỉnh sửa của Trần Minh Hải từ đêm qua nhưng phải chỉnh sửa cấu trúc, chính tả và ngữ pháp nên bây giờ mới vừa xong và đăng lên Blog. Trong tư liệu của Hải có
rất nhiều điều mới được bổ sung so với Trang Mốc Son. Tuy vậy cũng có một số tư liệu mâu thuẫn với Mốc Son đã công bố và với trí nhớ cũng như ghi chép của mõ Blog. Nhưng do quỹ thời gian có hạn Mõ Blog chưa chỉnh sửa được mà vẫn giữ nguyên gốc của Hải , hẹn sẽ tham gia và chỉnh sửa sau! Toàn bộ ảnh minh họa trong bài của Đào Việt Dũng
 
       Thưa các ông, các bà K6 Đại Học Cơ Điện đồng môn với tôi!
      Tôi là Trần Minh Hải lớp K6I, mà blog CCB gọi đích danh là Hải “Cam Tẩu Mã” “Tô Mộc”. Sở dĩ có quý danh trên là do hai năm học K6I đói, tôi được xơi cơm độn ngô bột mì luộc cá khô bí đỏ rau muống, su hào muối cả củ, không mì chính, chỉ có thuốc nấu của Tàu nấu chảo, khát thi thoảng làm chén chè quán bà Thủy mù, còn thi tu giếng nước thơi, nên con tỳ con vị bị yếu, ngọc thể bất an hay xì xoẹt.

      Hội K6 đi Vinh năm 2008 tôi nảy ra ý nghĩ trích nhật ký ghi niên biểu lớp K6I và một số tranh vẽ phô tô tặng các bạn cùng đi.Tôi nhờ TBT Dũng Chít đánh máy ,Thọ Mom bổ sung thành bản đã đăng trên blog được mọi người tán thưởng.Khích lệ tôi can đảm tập tọe viết gửi TBT Dũng Chít nhờ đăng BlogK6ĐHCĐ
      Hội K6 đi Nam Định-Ninh Bình 2015 qua tiếp xúc thấy các bạn đồng môn quên ráo những kỷ niệm một thời của K6.Hôm nay tôi mạo muội ghi một số đoạn trong nhật ký của tôi về thời sinh viên K6 nhờ các con tôi đánh máy mấy hôm cho dễ đọc.Để chư vị đọc cho vui nhé:


·                   Giấy báo nhập học mùng 1/10/1970 tới mùng 5/10 tôi và một số sinh viên mới lục tục đến phòng tổ chức nhập học,sau đó kéo đến trường trung cấp luyện kim ngày hai bữa ăn chực nằm chờ.

  •   ·Ngày 1/10-6/11/1970 đi chặt nứa: ngày 10/10 đoàn xe ca đưa toàn bộ sinh viên K6 đi tới phố Đu mọt đoạn rồi thả, để cả đoàn đi bộ tới 14h30 tới gần lâm trường bộ Quảng Chu vào nhà dân xin liên hệ sau rổi nghỉ tại nhà sàn. Quản lý Cương tháo vát cùng chị nuôi nấu ăn ven bờ suối. Khoán mỗi người một ngày nộp 20 cây bương vào bãi tập kết. Lịch trình một ngày như sau: ăn 1 cái bánh bột mỳ rán, vác dao đi 2km vào rừng chặt bương róc cành đủ 10 cây lấy dây rừng bó lại, kéo vác mang xuống bãi, ăn trưa tại bãi nứa. 14h đến 15h mới hoàn thành công việc về tắm giặt đợi cơm chiều, hoặc vào rừng nhặt sấu rụng ớt khế, tối đốt đuốc chặt cá hay lật đá suối bắt cua. Ngày thì nóng, đêm thì lạnh chỉ có 1 chăn dạ mỏng rét từ dưới gậm sàn lên, không ngủ được, nghe chim Từ Quy khắc khoải gọi bạn. Canh măng, rau tàu bay, canh đu đủ, thịt lợn hộp loáng thoáng. Kết thúc đợt lao động, lớp đi Chợ Mới mua 1 con bê về thịt liên hoan cả lớp 57 tên.
  • ·   11/11/1970 bắt đầu san nền đào hố chôn cột, dựng vì kèo nhà (KTCB nhà trường hướng dẫn cách dựng nhà lớp) cưa nứa đập dập đan tranh lợp mái, buộc giứng chát vách đến cuối tháng hình thành khu K6. Địa chỉ T BA NHẤT phố Tich lương, Đồng hỷ, Băc thái, Hòm thư K6IBC11R
  • ·    Ngày 4/12/1970 khai giảng khóa  K6 ĐHCĐ tại bãi đất trước nhà K6MB. Tấm phông xanh chữ đỏ “Lễ Khai Giảng Niên Khóa 1970-1975”. Hai bàn phủ nỉ xanh và một lô ghế băng kèm tiếng máy nổ ậm ịch lúc được lúc không. Đồng chí Hảo giáo vụ khai mạc mời hiệu trưởng Đỗ Hữu Phú phát biểu “…1700 sinh viên, 180 giáo viên, 9 phòng ban, 19 bộ môn, 30 lớp học là biên chế của trường ta hiện nay. Hơn 1000 người thi vào K6 chỉ lấy đỗ 150 người điểm thi vào cao thứ 2 của bộ đại học, chỉ sau trường ĐH Tổng Hợp mà thôi… Các anh đừng tưởng sau 5 năm học là cầm chắc bằng tốt nghiệp kỹ sư, nhà trường còn chú ý đến các anh chị về  mặt đạo đức nữa thì mới xét tốt nghiệp. Không thế thì chi phí đào tạo 1 sinh viên 86 đồng/tháng sẽ uổng phí. Trong lúc cả nước có chiến tranh, các anh chị được học đại học để xây dựng đất nước sau này, nhận trách nhiệm đó mà học cho tốt”. Chuẩn úy Học-bí thư chi bộ K6I phát biểu giọng Huế lên bổng xuống trầm làm sinh viên cười khúc khích. Chiều cả khóa thảo luận bài nói của hiệu trưởng Phú. Hảo cận thông báo chương trình học. Sau đó được nghỉ 2 ngày
  • ·     Từ 10/12/1970-10/1/1971 học quân sự 1 tháng ở sân lớp học K6, tập bắn ở ruộng giữa 2 hẻm đồi - lối đi tắt vào trường. Bắn đạn thật súng thể thao QP. Buổi trưa mang âu xuống nhà bếp lấy về phòng. Thực đơn trường kỳ canh đu đủ, canh sắn, su hào muối, mắm tôm, thuốc nấu, cá khô…
  • ·   Các tổ thay phiên nhau hàng tháng vào căn tin thồ gạo rau củ quả mắm muối về nhà bếp. Sinh viên thay phiên nhau 1 tháng có 2 tên làm thủ kho, quản lý giao gạo thực phẩm cho chị nuôi nấu ăn. Mỗi tháng xem 1, 2 tối phim ở bãi luyện kim, phim cũ rích có phụ đề, chiếu một máy, sinh viên toàn trốn vé vào xem bằng mọi cách. Nhà nước chỉ cho 18 đồng tiền ăn mà thôi, chi tiêu sách vở, hàng phân phối căn tin thì bỏ tiền túi ra. Vé tàu hỏa HN-Lưu Xá 1 đồng 4 hào sinh viên rách trốn vé là thượng sách. Tem bưu điện 12 xu sinh viên nghèo tấy xóa tem thư cũ dùng lại, bưu điện trả lại cười như nghé. Mùa đông cuốc bộ 2 KM tắm nước nóng dưới lò cao khu gang thép. Ăn và giặt bằng giếng đào cạnh bếp tập thể, lừa nhau chỗ này chỗ kia có chiếu phim để rủ nhau đi, rồi cả lũ lại về không. Giấy viết rất đen gọi là giấy giang (kể cả giấy báo nhập học, giấy báo nhập ngũ, giấy viết…). Giáo trình in roneo nhòe nhoẹt, bài tập lớn vẽ kỹ thuật in ánh sáng nền xanh nét trắng. Bút viết còn chấm mực Cửu Long. Tháng mỗi tên được nửa lít dầu hỏa để thắp sáng học buổi tối. Thi
    thoảng cả lớp phải tự đi lấy củi ở tận trong rừng Tân Cương, Bình Định bên kia sông Công về để đun nấu, bữa trưa đi lấy củi là hai miếng bột mì rán, dân Hà Nội rên vì đau vai gánh củi. Ở Bắc Thái mùa rét tầm 8-9h sáng trời rất lạnh, buổi tối đi quận công bọ hung bay vù vù. Hai thằng 1 giường sắt, thằng trên trở mình thì cả giường rung bần bật, giường nào cũng trổ vách 1 ô cửa sổ 2 mắt giứng để lấy ánh sáng tự nhiên. Sáng nào cũng nghe tiếng còi của lớp trưởng Huynh kèm theo giọng eo éo không thể nào quên, tổ trưởng Nguyên lật màn đốc từng thằng ra sân tập thể dục, sau đó tự học. Ăn mì luộc + canh rau muống luộc nấu chảo gang nước đen sì, chiều học đủ 6 tiết. 20h im lặng ngồi vào bàn học, 21-22h chui vào màn ngủ. Hội đá bóng la hét cả ba lớp váng tai, to mồm là các tên Hồ Nam, Thanh Hòa... Ghi ta bập bùng chỗ Thu và anh Tiến đẹp trai. Nói như máy khâu là Thuộm. Chăm viết thư cho gái là tên Thâm, Viêm. Thâm tàu như Cửu. Lấy vợ khi đang học là hai tên PHAC, DU. Học giỏi làm cán sự là VỊ, DŨNG chít… To con như Nghô Thịnh, Nguyên, Liều thách đô là Bùi Cảm, nhỏ con như Dân, Thương. Cao kều la Thi, Khôi... mảnh dẻ như Trang, Trâu đất như Đông, Trung....  
  • ·     Chiều thứ 6 15/1/1971 K6 lên lớp buổi đầu tiên, 3 môn 6 tiết học trôi qua trong căng thẳng vì chưa quen: mắt nhìn - tai nghe - tay ghi chép. Học kỳ I năm thứ nhất buổi chiều các môn sau: hình học họa hình, vẽ kỹ thuật (Khoa), Nga văn (Hải), thể dục, hóa học (Ngữ), toán (Cự). Cả 3 thầy đều kết thúc sớm 40’ để các thầy tán chuyện gẫu với học sinh. Giai đoạn này ăn bột mì luộc thay cơm, tôi là người đầu tiên đi hái ngọn rau khoai lang ở bãi về luộc ăn, các mợ sinh viên cười khúc khích rồi theo gương tôi hái về ăn cho đỡ xót ruột.

  •      11/2/1971 cùng Song kẻ khẩu hiệu tiếng Hungary ở bức tường xây gần hiệu bộ để 15/2 đón đoàn đại biểu Hungary về thăm trường. Cuối tháng 3 cả tháng 4 năm 1971, thực đơn K6 mì luộc {2 nắm một bữa}
  •      11/4/1971 nhận thẻ cử tri đi bầu cử HĐND các cấp tỉnh Bắc Thái.
  •    18/4/1971 cả lớp cuốc bộ qua K4, K5, xưởng trường, bệnh viện A, quán 300 để đi trồng cây tại đán. Trung tướng Bằng Giang đọc diễn văn. Hố đã đào sẵn sinh viên chỉ việc lấy cây từ ô tô xuống cắm vào đổ đất, tưới nước làm phép (chắc sau này cây chết nhiều).
  •    24/4/1971 xem K2 bảo vệ đồ án tốt nghiệp (tự hỏi bao giờ mình sẽ được như thế này). 26/5/1971 K2 ra trường.
  •    27/5/1971 Bảo vệ thi nghiệm hóa học, buổi tối sét đánh cách nhà K6 tôi ở 100m
  • ·  Thứ Tư 28/4/1971 ngày thi đầu tiên môn Nga văn (mỗi người 2 trang đề in Rodeo). 13/5 thi hóa đại cương; 24/5 thi toán; 18/5 thi hình họa môt nửa lớp rụng do thầy Hiển ưu ái thầy Khoa. Bùi Đình Thâm thi xịt cả 3 môn bỏ ăn, khóc lóc.
  • ·    30/5/1971 học kỳ II năm thứ nhất vào buổi chiều. Các môn Toán (Cự), Lý (Công), Chính Trị (Bạt), Nga (Hải), Vẽ Kỹ thuật (Khoa), Thể dục
  • ·    24/7/1971 diễn đàn về Lê Mã Lương. Cả lớp viết đơn tình nguyện nhập ngũ, hôm sau làm lễ phát động (2/3 lớp chờ ngày nhập ngũ nay mai). 29/7/1971 khám sức khỏe cho 23/54 tên lớp K6i, y sĩ Lịch còm nhom vừa khám vừa nói chuyện, bí thư Học ngồi cạnh cứ tủm tỉm cười.
  •    31/7/1971 lớp liên hoan chia tay 13 người đi lính (thịt chó ông Trúc nuôi) gồm Phạm Quang Trang, Nguyễn Khánh Thường, Trịnh Đức Dũng, Đào Bá Long, Lương Công Thu… Lớp chỉ còn nhõn 42 tên cùng ra ga tiễn biệt....
  • ·    17/8/1971 lớp nghỉ hè tôi trông lớp nửa tháng đầu (đúng trận lũ lịch sử năm 71 nước ngập đường
    tàu vỡ đê Cống Thôn). 18/8/1971 tôi và Thu bắt quả tang trẻ con xóm vào ăn trộm vali của á hậu Hiền K6I
    . Số sinh viên nghỉ phép lên nhập ngũ đập phá giường, sách vở của người ở lại trong lúc tôi không có mặt. Phòng tổ chức căn vặn phê phán tôi bao che cho các tên phá hoại. Về hè, tàu hỏa đến ga Yên Viên rồi đi bộ qua cầu treo, vì Cầu Đuống bị bom mỹ đánh gãy nhịp giữa. Vỡ đê nước lụt mênh mông khắp nơi.
    Nửa tháng sau Danh Hòa thay...
  • ·    30/9/1971 cả lớp đi lấy củi ở Tân Cương để sáng mai đi lao động khắc phục hậu quả lũ lụt nửa tháng ở Xuân Quan - Hải Hưng (1-16/10/1971). Lớp xuống ga Gia Lâm cuốc bộ dọc đê sông Hồng tới qua cống Xuân Quan thì trọ. Bắt đầu lao động, cả trường nạo vét kênh thoát, bùn cửa cống đã 10 năm chưa được nạo vét, trên mặt váng bùn, sâu đất rắn như đá. 6h sáng sang nhà bếp ăn lót dạ, tổ góp tiền giờ giải lao ăn bánh mì rán 3 hào. Giai đoạn sau gánh đất đắp bồi đê bên đầu phía Gia Lâm của cống Xuân Quan. Cả trường nghe nhạc qua đài ôriôntôn chỉ giờ ca nhạc mà thôi.
  • ·   23/12/1971 có lệnh nhập ngũ. Hải, Thịnh, Thuộm, Dần, Viêm, Hoạch, Cảm, D.Hòa nghỉ 15 ngày phép. 7/1/1971 tôi lên tàu về trường gặp Phạm Quang Trang ở ga Trung Giã. Hai đứa buồn bã nói chuyện với nhau (nó được nghỉ phép về nhà để chuẩn bị đi B, sau này Trang đã hi sinh). Chỉ có Viêm - Hoạch - Hòa đi bộ đội, chúng tôi được hoãn.
  • ·    3/3/1972 bắt đầu vào mùa thi HK1 năm thứ 2. 7/2 thi Toán gặp thầy Nhu máy chém (cả lớp chỉ có tôi và cán sự Vị đạt điểm 5). 13/2 thi Lý (Tôi bị sịt ngòi buồn hí). 16/4 thi Cơ lý thuyết (10/42 vị nộp giấy trắng xin thi lại cho chắc, tôi lại đạt điểm 4, sướng hề). 12/2 báo kết quả Nga văn, 19/4 thi vẽ kỹ thuật (Cán sự Dũng chít vào đầu, tôi vào thứ 23 mà tôi ra sau chít nhõn 10 phút)
  • ·   Từ 17-25/3/1971 K6 ngừng thi-học chính trị có viết thu hoạch về tình hình kinh tế quốc phòng miền Bắc, có Bộ trưởng bộ ĐH Nguyễn Đình Tứ về thăm lớp k6i nói chuyện hôm 31/3 (cơm độn ngô xay vỡ + nước chấm, cá khô triền miên cả tháng, lớp không có rau. Tôi có cảm giác sinh viên ăn khổ quá lợn!
  • ·    6/4/1972 toàn trường tập trung ở rừng bạch đàn khu K5 nghe anh hùng Trịnh Tố Tâm kể chuyện đánh 57 trận thì 53 lần đạt danh hiệu dũng sĩ diệt Mỹ.
  •  8/4/1972 trồng cây gây rừng gần quán 300 cảm tưởng dân ở đây cực khổ quá.
  •  12/4/1972 cả lớp đăng ký tình nguyện đi bộ đội.
  • · 22/4/1972, 1 nửa lớp đi lấy củi, nửa lớp làm hầm tránh máy bay. Buổi tối có lệnh sơ tán triệt để khu gang thép đề phòng B52. Xẩm tối 24/4 có lệnh cả lớp sơ tán gấp vào K4ME trước 23h. Hôm sau K6 được gọi đi khám tuyển phi công (dĩ nhiên cả lớp trượt). Mất mấy ngày làm hầm trú ẩn. Sống ở khu K4 ngoài 2 bữa cơm ngô+canh rau dền + canh dưa chuột. Buổi tối chờ đến giờ cả lũ ngồi nghe đài bán dẫn pin yếu, sóng yếu tiếng được tiếng mất về hội nghị Pari. ngày xem k4m thi, mới biết mặt cao thủ máy chém Nguyễn phan mạnh Tường (sau này là phu quân hoa hậu k6 Hà) 
  • ·  4/5/1972 lớp có đợt đi bộ đội gồm Tiến đẹp giai nhứt k6, Thu, Cường, Hồ Nam, Khánh, Cảm. Hôm sau lớp làm liên hoan tiễn 6 vị lên đường. Cả tuần từ 8-15/4 ăn học ngủ đều nghe bom mỹ nổ rền nơi xa vọng về, còi báo động liên tục, trời nóng bức. Bữa cơm gồm mì + khoai tây hộp chua lòm lòm.
  • ·     19/5/1972 cả K6 chuyển vào khu K5 ở và học tập, còn 600 lính K5 đi sơ tán tại Đại Từ. Lớp lại mất mấy ngày thu xếp nơi ăn chốn ở, dọn bếp ăn, nạo giếng nước sửa hầm trú ăn. Còi báo động gang thép suốt ngày kêu rú. Bài ca không quên, nhớ mà hãi = sáng chị Hông cấp dưỡng đổ ngô hạt mang ra giêng xảy mày đay, rồi đổ vào chảo gang ninh, chị không quên bỏ vào chảo một đốt ngón tay cục vôi tôi ăn trầu, ngô bung xong là ới gọi, các tên mang âu xuông vục đầy (đó là khẩu phần ăn cho cả ngày đấy) thưc ăn nhõn là thuôc nấu Tàu thêm muối ta cộng nước đun sôi mà không có rau đâu.
  • ·  
      
    25/5/1972 HK2 năm thứ 2 buổi sáng gồm Toán (Ngoạn), cơ lý thuyết (Tài), thủy lực (Lương), nga văn (Hải), Vật lý (Sinh), nguyên lý máy (Lầm), lớp trưởng và cán bộ các tổ ngày nào cũng tới kéo từng thằng lên lớp học. Lớp học uể oải vì chốc chốc lại có còi báo động, lại phải xuống giao thông hào.
  • ·     1/6/1972 cả lớp đang lao động khiêng panen làm nắp hầm trú ẩn khu thí nghiệm vật lý, có quyết định dột ngột: Dũng chít, Danh Hòa đi bộ đội, bom rền phía nam. Giờ vẫn còn cái cảm giác nơi ăn, lớp học ngày đó sao mà uể oải ngột ngạt vì nóng bức, vì các tên trai bồn chồn đợi ngày báo lên đường đi bộ đội. Tôi biết chắc chắn rằng không trụ nổi liên khóa 1970-1975 này đâu.
  • ·   Thực tập công nghệ kim loại ở xưởng Trường (từ 12/6-2/7/1972) thời gian là 14h30-17h và 19h-23h, trời nóng nực kinh khủng. Xưởng chạy máy phát điện có báo động lại tắt máy tối om luân phiên nhau mỗi tuần đi thực tập ban tiện, ban nguội, ban rèn (Thuấn cụt, Nguyên đánh dao găm rứt đẹp).
  • ·    Đi lao động đắp đê sông Cầu (từ 3/7-6/8/1972) trú tại xóm 3 Xuân Trù, xã Tiên Phong, Đại Xuân, Phổ Yên, Bắc Thái. Lớp K6i có 3 thầy Ngoạn, Khoa, Hải cùng đi. Công việc của lớp là đắp con trạch. 4h sáng đi, sau 30’ tới công trường làm khoán 9h về, chiều làm tiếp từ 15h-17h30. Lớp tổ chức liên hoan thịt chó Đỗ Như Đôi say rượu trêu thầy Hải. Sau khi về trường kéo dài triền miên 2 bữa ăn chỉ có hạt ngô luộc chảo gang, múc ra âu ăn với nước chấm Trung Quốc pha loãng trường kỳ cả tháng 8-9/1972. Tât lẽ dĩ ngẫu là phải hái rau rệu, trộm rau khoai lang, để mà độn diều.
  • ·    4/9/1972 khám sức khỏe tại khu căn tin trường, chiều hôm sau lớp vào K4ME học nhờ.
  • ·  Thứ 5 mùng 7/9/1972 sáng có tin báo chính thức Hải, Thuộm, Dần, Thịnh đi đợt này. Tối đó cả lớp ra ga tiễn, tàu thời chiến không có đèn đóm chạy lắc lư trong đêm. Tôi –Thuộm - Dần ngồi trong toa đen, chả nói câu nào với nhau… (xin xem thêm ở bài “Đợt lính vét cuối cùng của K6 ĐHCĐ)
  • ·    Thứ 5 21/9/1972 ngày cuối cùng ở trường ĐHCĐ : trời lớt phớt mưa nhỏ, lớp giải lao sau 2 tiết đầu. Còi báo động khu gang thép rú lên. Mỹ bỏ bom Thịnh Đán, có 6 quả bom rơi vào trường cơ điện (có 2 quả nổ sau nhà hiệu bộ, cách k6i ở 150m). Bà Minh chăn trâu xưởng Trường cụt tay, 1 sinh viên người Lào bị chết. Hội 16 tên đi lính tới nhà ăn giáo viên cạnh căn tin ăn bánh ngọt, uống nước chè mạn. Hiệu trưởng Phú dặn dò đi tiễn lên đỉnh dốc, chờ xe tải (đi về Hà Nội báo cáo tình hình với bộ ĐH & ĐSQ Lào) cho chở quá giang về đến ga Lương Sơn thì dừng xe, cho cả đoàn xuống đi bộ vào xóm Rô xã Thượng Đình, huyện Phú Bình, tỉnh Bắc Thái nhập vào C3 D76 F304B. Nói thêm ngày 15/9/1972 Ngô Thịnh và một số tên đi trước nhập vào C2 D76 F304B.
  •    Thưa các ông, các bà k6i nói riêng và các ông các bà k6ma, k6mb niên khóa 1970-1975 noí chung, tôi hy vọng rằng môt số tư liệu trên, sau khi đọc mỏi măt, chư vị tháo kính ra, lim dim hai con mắt, nhớ lại  thời oanh liệt của mình tại Lớp K6I, K6MA, K6MB thân yêu. Thế là đạt ước vọng của Hải ToMoc tôi rồi.

5 nhận xét:

  1. Đúng là ĐHCĐ. các thế hệ sinh viên sau này chắc không thể có được cái hồn cơ điện như thời cơ điện..Trần Minh Hải đã có những dòng nhật ký rất giá trị.nó làm hiện lên toàn bộ hình ảnh cuộc sống học tập,lao động và chiến đấu của lớp cựu sinh viên trường ĐHCĐ ngày nào.Hy vọng TM.Hải sẽ là một độc giả thường xuyên có mặt giao lưu trên các trang BLoger của dân cơ điện.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Nhận xét này đã bị tác giả xóa.

      Xóa
    2. Cảm ơn Đặng Hưng đã khích lệ tớ.Ở đây tớ xin nói rõ :Bản mốc son cơ điện đã đăng trên blog k6 .Khởi thủy tớ đưa nhật ký ,TBT Dũng Chít đánh máy,Thọ Mom bổ sung đã đăng rồi.Rất mong các bạn gửi email những tư liệu bổ sung cho bản mốc son cơ điện.Gửi cho BBT dùng hoàn chỉnh biên niên sử k6 ĐHCĐ.Bài viết này tớ rút một phần trong nhât ký riêng của tớ được lưu lại tới ngày nay.Nhật ký là ghi chép cập nhật những tâm tư ,công việc ,các sự kiện mà mình đã chứng kiến ...

      Xóa
  2. Liệu có lớp nào có đầy đủ ảnh các mỳ chính cánh như K6i không nhỉ? Mà đúng là ảnh xịn chụp đã trên 40 năm nhé!

    Trả lờiXóa
  3. Ngày xưa giấy ảnh rất chuẩn và cực tốt nên ảnh rửa ít bị phai mờ như bây giờ

    Trả lờiXóa

Dùng những mã code này để cài ảnh, phim, nhạc vào lời bình
Link ==> <a href="URL">Ở ĐÂY</a>
Hình ảnh ==> [img]URL[/img]
Youtube clip ==> [youtube]URL[/youtube]
Nhạc của Tui ==> [nct]URL[/nct]