Đào Việt Dũng
Tôi đã biết điều này cách đây 45 năm nhưng hôm rồi ra Đông Triều có tranh luận với Dong thì thấy Dong vẫn còn chưa biết và rất nhiều người đồng tình với Dong (chẳng qua cũng chỉ là chưa biết).
Về đến nhà ngồi nhớ lại thì nhờ ông Google để đăng lên đây cho mọi người biết thêm, đỡ nhầm lẫn mà tưởng là nó theo âm lịch. Nguyên gốc tại đây: http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/phongtuc/cau_109.html
Cách tính ngày tiết: Một năm có 24 khí tiết. Khí tiết phù hợp theo dương lịch. Đối chiếu khi tiết với ngày dương lịch hàng năm chỉ chênh lệch lên xuống một ngày, bởi dương lịch 4 năm nhuận một ngày 29/2 mà ngày tiết không tính nhuận (Xem bảng đối chiếu ngày dương lịch với 24 khí tiết).
Cách tính ngày trực: Có 12 trực theo trình tự từ trực kiến đến trực bế, mỗi ngày một trực: 1. Kiến (tốt), 2. trừ (thường), 3. mãn (tốt), 4. bình (tốt), 5. định (tốt), 6. chấp (thường), 7. phá (xấu), 8. nguy (xấu), 9. thành (tốt), 10. thu (thường), 11. khai (tốt), 12. bế (xấu).
Ví dụ: Tháng giêng âm lịch tức tháng hai dương lịch trực kiến tạo ngày dần kể từ tiết lập xuân trở đi. Tiếp sau ngày đó mão trực trừ, ngày thìn trực mãn, ngaỳ tị trực bình... ngày sửu trực bế.
Sau lập xuân Trực kiến tại dần Sau kinh trập Trực kiến tại mão Sau thanh minh Trực kiến tại thìn Sau lập hạ Trực kiến tại tị Sau mang chủng Trực kiến tại ngọ Sau tiểu thử Trực kiến tại mùi Sau lập thu Trực kiến tại thân Sau bạch lộ Trực kiến tại dậu Sau lập đông Trực kiến tại tuất Sau đại tuyết Trực kiến tại tý Sau tiểu hàn Trực kiến tại sửu
Bảng kê ngày tiết theo
dương lịch và ngày khởi đầu trực kiến theo ngày tiết
Tên ngày tiết khí | Ngày dương lịch | Ngày khởi đầu trực kiến |
Lập
xuân vũ thuỷ kinh trập Xuân phân Thanh minh Cốc vũ Lập Hạ Tiểu mãn Mang chủng Hạ chí Tiểu thử Đại thử Lập thu Xử thử Bạch lộ Thu phân Hàn lộ Sương giáng Lập đông Tiểu tuyết Đại tuyết Đông chí Tiểu hàn Đại hàn |
4 hoặc
5 tháng 2 19_20 tháng 2 6_7 tháng 3 21_22 tháng 3 5_6 tháng 4 20_21 tháng 4 6_7 tháng 5 21_22 tháng 5 6_7 tháng 6 21_22 tháng 6 7_8 tháng 7 23_24 tháng 7 8_9 tháng 8 23_24 tháng 8 8_9 tháng 9 23_24 tháng 9 8_9 tháng 10 23_24 tháng 10 8_9 tháng 11 22_23 tháng 11 7_8 tháng 12 22_23 tháng 12 6_7 tháng 1 20_21 tháng 1 |
dần _ mão _ thìn _ tị _ ngọ _ Mùi _ thân _ dậu _ tuất _ hợi _ tý _ sửu _ |
Bảng đối chiếu Nhị thập bát tú với tuần lễ
1 2 3 4 5 6 7 |
Giác (Mộc) Cáng (Kim) Đê (Thổ) Phòng (nhật) Tàm (nguyệt) Vĩ (Hoả) Cơ (thuỷ) |
thứ 5 thứ 6 thứ 7 chủ nhật thứ 2 thứ 3 thứ 4 |
tốt xấu xấu tốt xấu tốt tốt |
Nhưng kỵ an táng và sửa mộ |
8 9 10 11 12 13 14 |
Đẩu (mộc) Ngưu (kim) Nữ (thổ) Hư (nhật) Nguy (nguyệt) Thất (hoả) Bích (thuỷ) |
thứ 5 thứ 6 thứ 7 chủ nhật thứ 2 thứ 3 thứ 4 |
tốt Xấu xấu xấu xấu tốt tốt |
|
15 16 17 18 19 20 21 |
Khuê (mộc) Lâu (kim) Vị (Thổ) Mão (Nhật) Tất (nguyệt) Chuỷ (hoả) Sâm (thuỷ) |
thứ 5 thứ 6 thứ 7 chủ nhật thứ 2 thứ 3 thứ 4 |
vừa tốt xấu tốtốt tốt xấu tốt |
Các việc
xấu, riêng làm nhà, học thi tốt Riêng tạo tác được Riêng hôn nhân an táng xấu |
22 23 24 25 26 27 28 |
Tỉnh (mộc) Quỷ (kim) Liễu (thổ) Tinh (nhật) Trương (nguyệt) Dự (hoả) Chẩn (thuỷ) |
thứ 5 thứ 6 thứ 7 chủ nhật thứ 2 thứ 3 thứ 4 |
tốt xấu xấu xấu tốt xấu tốt |
Riêng an táng tốt Riêng làm nhà được |
Và đây nữa: Gốc ở đây: http://www.ngheandost.gov.vn/JournalDetail/ar217_Nhuan_thang_Nam,_mua_he_co_dai_them_khong.aspx
NHUẬN THÁNG NĂM, MÙA HÈ CÓ DÀI THÊM KHÔNG?
Theo
âm lịch, năm 2009 có 13 tháng (thêm một tháng Năm nhuận). Nhiều người
nghĩ rằng mùa hè dài hơn nên thời tiết sẽ nóng nực hơn, quạt điện và máy
điều hòa nhiệt độ phải hoạt động nhiều hơn, tốn điện hơn. Để giải thích
điều này cần phải phải biết vì sao âm lịch có một tháng nhuận trong lúc
dương lịch năm nhuận chỉ có thêm một ngày?
Khi
con người biết sản xuất nông nghiệp, việc tìm hiểu chu kỳ thời tiết rất
quan trọng. Các Mác đã viết: “Do việc dự báo nước sông Nin lên xuống mà
ngành thiên văn cổ Ai Cập đã phát triển và các tu sỹ Ai Cập đã quan sát
sao Thiên Long (Sirius) trong chòm Đại Khuyển là ngôi sao sáng nhất.
Khi sao Thiên Long xuất hiện buổi sáng thì chỉ vài tháng sau là có lũ
lớn trên châu thổ sông Nin”.
Dựa
vào các chu kỳ thiên văn, người ta đã đặt ra lịch, là hệ thống tính
thời gian dài. Trên thế giới có nhiều loại lịch nhưng hiện nay phổ biến
nhất là dương lịch. Dương lịch được hoàng đế La Mã là Julia Xêda giao
cho nhà thiên văn Sôsigien làm ra và được áp dụng từ năm 46 trước Công
nguyên, được gọi là lịch Juline hay dương lịch cũ. Theo lịch này, mỗi
năm có 365 ngày và cứ 4 năm có một năm nhuận có 366 ngày (năm nhuận là
những năm có số chỉ năm chia hết cho 4, ví dụ năm 2008, 2012…), vậy độ
dài trung bình mỗi năm là 365,25 ngày.
Cơ
sở dương lịch là độ dài năm Xuân phân, đó là khoảng thời gian giữa 2
lần liên tiếp mặt trời đi qua điểm Xuân phân (vào ngày 21/3 hàng năm).
Năm Xuân phân có 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây hay 365,2422 ngày, như
vậy mỗi năm sai 0,0078 ngày, sau 400 năm sai đến 0,0078 x 400 = 3,12
ngày. Đến năm 1582 sai đến 10 ngày, nên Giáo Hoàng Grigori đã cho sửa
đổi lịch. Sau ngày 4/10/1582 không gọi là ngày 5 mà là ngày 15 tháng 10
năm 1582 và cứ 400 năm bỏ bớt 3 ngày nhuận (đó là các năm có số chỉ thế
kỷ không chia hết cho 4). Vậy, các năm 1600, 2000, 2400 là năm nhuận có
366 ngày, còn lại các năm 1700, 1800, 1900, 2100, 2200 chỉ có 365 ngày
(bỏ ngày nhuận). Loại lịch sửa đổi này được gọi là lịch Grigori hay
dương lịch mới. Dùng lịch mới này vẫn còn sai lệch nhưng rất bé, phải
3300 năm sau mới phải thêm một ngày.
Âm
lịch dựa vào chu kỳ tuần trăng có 29,53 ngày, một năm có 12 tháng chỉ
có 354 ngày so với chu kỳ thời tiết năm Xuân phân, theo lịch này mỗi năm
sai trên 10 ngày, 3 năm sai trên một tháng, 9 năm sai trên một mùa. Từ
trước Công nguyên người ta đã cải tiến âm lịch, đưa ra quy tắc cứ 19 năm
có 7 năm nhuận, năm nhuận có 13 tháng. Đây là loại lịch hiện nay nước
ta và một số nước Á Đông vẫn dùng để tổ chức lễ hội truyền thống và gọi
là âm lịch, nhưng thực ra âm lịch cải tiền là âm dương lịch vì sử dụng
cả chu kỳ dịch chuyển biểu kiến của Mặt Trời trên bầu trời sao và chu kỳ
tuần trăng.
Theo âm lịch, 19 năm có: 13 tháng x 19 năm + 7 tháng nhuận = 235 tháng và có 29,53 x 235 = 6939,55 ngày.
Theo dương lịch 19 năm có: 365,2422 x 19 = 6939,60 ngày.
Như
vậy, cứ 19 năm sẽ có sự trùng hợp giữa âm lịch và dương lịch, vì có số
ngày như nhau. Nếu lưu trữ đủ 19 cuốn lịch của 19 năm tiếp theo thì không phải mua lịch mới.
Bác
Hồ mất ngày 2.9.1969 là ngày 21.7 âm lịch, năm 2007 ngày 2.9 cũng đúng
là ngày 21.7 âm lịch năm ấy, có người cho là sự kiện đặc biệt, thực ra
ngày 2.9 các năm 1969 + 19 = 1988, 1988 + 19 = 2007, 2007 + 19 = 2026,
2026 + 19 = 2045… đều đúng vào ngày 21.7 âm lịch của các năm ấy.
Trong
bảng dưới đây cho biết năm nào có tháng nhuận và nhuận vào tháng nào
(tháng nhuận là tháng chỉ có ngày tiết là tiết khí không có trung khí).
Trong bảng có 3 chu kỳ 19 năm tính từ năm Nhâm Tuất (1982) đến năm Kỷ
Mùi (2034) và theo trật tự này ta có thể viết tiếp cho các năm sau đó:
Năm
|
Tháng nhuận theo âm lịch
|
Khoảng cách giữa hai năm nhuận
|
Nhâm Tuất (1982)
|
Tháng Tư
|
3 năm
|
Ất Sửu (1985)
|
Tháng Hai
|
2 năm
|
Đinh Mão (1987)
|
Tháng Bảy
|
3 năm
|
Canh Ngọ (1990)
|
Tháng Năm
|
3 năm
|
Quý Dậu (1993)
|
Tháng Ba
|
2 năm
|
Ất Hợi (1995)
|
Tháng Tám
|
3 năm
|
Mậu Dần (1998)
|
Tháng Năm
|
3 năm
|
Tân Tỵ (2001)
|
Tháng Tư
|
3 năm
|
Giáp Thân (2004)
|
Tháng Hai
|
2 năm
|
Bính Tuất (2006)
|
Tháng Bảy
|
3 năm
|
Kỷ Sửu (2009)
|
Tháng Năm
|
3 năm
|
Nhâm Thìn (2012)
|
Tháng Ba
|
2 năm
|
Giáp Ngọ (2014)
|
Tháng Tám
|
3 năm
|
Đinh Dậu (2017)
|
Tháng Năm
|
3 năm
|
Canh Tý (2020)
|
Tháng Tư
|
3 năm
|
Quý Mão (2023)
|
Tháng Hai
|
2 năm
|
Ất Tỵ (2025)
|
Tháng Bảy
|
3 năm
|
Mậu Thân (2028)
|
Tháng Năm
|
3 năm
|
Tân Hợi (2031)
|
Tháng Ba
|
2 năm
|
Quý Sửu (2033)
|
Tháng Tám
|
3 năm
|
Đinh Thìn (2036)
|
Tháng Năm
|
3 năm
|
Kỷ Mùi (2039)
|
Tháng Tư
|
3 năm
|
Ta
thấy cách đây 19 năm, năm âm lịch Canh Ngọ (1990) đã có 2 tháng Năm.
Sau đây 19 năm là năm Mậu Thân (2028) cũng có hai tháng Năm.
Thời
tiết khí hậu phụ thuộc vào năng lượng mặt trời, mặt trăng chỉ phản xạ
một phần ánh sáng mặt trời xuống trái đất, chỉ bằng một phần 60 vạn năng
lượng mặt trời truyền cho trái đất, mà năng lượng mặt trời lại phụ
thuộc góc chiếu của tia mặt trời và thời điểm chiếu sáng. Ngay từ trước
Công nguyên người ta thấy rằng năm âm lịch có 354 ngày, năm nhuận có tời
383 ngày không phù hợp với chu kỳ thời tiết nên đã dựa vào vị trí mặt
trời trên Hoàng Đạo (đường dịch chuyển biểu kiến của mặt trời trên bầu
trời sao) để chia một năm ra 24 ngày tiết, các ngày tiết cách nhau
khoảng nửa tháng. Theo dương lịch, các ngày tiết trong năm đều giống
nhau, nếu có sai lệch cũng chỉ một ngày, còn theo âm lịch có khi sai
khác hai, ba hoặc bốn tuần lễ. Nếu theo dương lịch hay lịch 24 ngày tiết
thì việc sản xuất nông nghiệp mới đúng thời vụ. Như vậy, năm âm lịch Kỷ
Sửu 2009 có hai tháng Năm cũng không làm cho mùa hè dài thêm.
Ở
nước ta, mùa hè được tính từ ngày tiết lập hạ, ngày 5 tháng Năm đến lập
thu (hết hạ sang thu) ngày 7 tháng Tám và năm nào cũng như vậy. Nếu
theo âm lịch, năm Mậu Tý lập hạ vào ngày 1 tháng Tư, lập thu vào ngày 7
tháng Bảy; năm Kỷ Sửu lập hạ vào ngày 11 tháng Tư, lập thu vào ngày 17
tháng Sáu.
Vậy,
việc theo dõi thời tiết để sản xuất nông nghiệp và các hoạt động khác
cần phải theo lịch 24 ngày tiết (tức dương lịch). Nếu theo âm lịch sẽ
sai lệch với thời tiết ba, bốn tuần lễ và năm nay có hai tháng Năm âm
lịch không làm cho mùa hè dài hơn và nóng nực hơn./.
ABC
Ko ai nhận xét nhưng chắc chắn K6 vẫn còn nhiều người chưa biết điều này hoặc biết mà ko tin vì U70 rồi, bảo thủ lắm!
Trả lờiXóaCám ơn Lão Chít đã cung cấp 1 văn bản giá trị, các lão K6 ĐHCĐ nên xem, để khi giở lịch xem ngày, sẽ né hạ ngày xấu ra chọn ngày tốt mà thực hiện, để mọi sự là hanh thông.Tôi xin bổ xung thêm 1 vấn đề nhỏ : Ngày Đông chí chính là Mồng một tết năm mới ở cõi âm ( theo nhiều thầy đã nói ) nên vừa qua đi nghĩa trang mời các Cụ về ăn tết với con cháu, tôi thấy nhiều nhà sắm lễ có mứt, có cành hoa đào, bên cạnh đồ mã thông thường .Tin hay không là tùy ở các chư vị thôi
Trả lờiXóa