Muốn hiểu thêm một câu thơ của Bác Hồ
VNTN
- Tức cảnh Pác Bó là bài thơ Bác Hồ viết vào tháng 2 năm 1941, được tái
bản nhiều lần trong các tuyển tập khác nhau và được dạy trong nhà
trường. Đó là một bài thơ rất hay, được nhiều người yêu thích. Riêng tôi
cứ băn khoăn mãi một vấn đề và rất muốn hiểu thêm bài thơ này của Bác.
Tức cảnh Pác Bó
Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng(1)
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Đây
là bản rút từ “Hồ Chí Minh - Tuyển tập” (tập 1, 1919 - 1945), Nxb Chính
trị Quốc gia 2002, tr 584. Câu thơ thứ 3 “Bàn đá chông chênh dịch sử
Đảng” - được chú thích như sau: “Hồi ở Pác Bó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dịch cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô
ra Tiếng Việt làm tài liệu học tập cho cán bộ cách mạng”. Nhiều nguồn
tư liệu khác, trong đó có Wikipedia viết rằng “Tháng 1/1941, sau 30 năm
bôn ba và hoạt động ở nước ngoài, Bác trở về Tổ quốc. Người qua biên
giới Việt - Trung ở cột mốc số 108 thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng,
tỉnh Cao Bằng…Nơi đây Bác trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng các đoàn
thể cứu quốc ở Cao Bằng, mở các lớp huấn luyện cán bộ, lược dịch cuốn lịch sử Đảng Cộng sản (bonsevich) Liên Xô, chuẩn bị cho hội nghị Trung ương lần thứ 8”.
Vậy thì Bác đã dịch hay lược dịch cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô? Bởi dịch và lược dịch rất khác nhau.
Dịch (translate
- traduce): Làm cho một nội dung diễn đạt bằng ngôn ngữ, hoặc nói
chung, hệ thống tín hiệu này được diễn đạt bằng ngôn ngữ hoặc hệ thống
tín hiệu khác. Lược dịch (translate party) là dịch những ý chính, bỏ qua các chi tiết (Từ điển Tiếng Việt, Nxb KHXH. H.1988).
Và
nếu là cuốn “Lịch sử Đảng cộng sản (b) Liên Xô” được Bác dịch thì nay ở
đâu? Vì trong Wikipedia chỉ viết là “Tỉnh ủy bí mật” - Tác giả Fedorov -
Dịch Nguyễn Du Kích - Viết lời giới thiệu Hồ Chí Minh, Nxb Văn Nghệ
1951. Ta cũng đã biết, Nguyễn Du Kích là bút danh của Bác. Như vậy có
thể khẳng định đến nay ta biết tác phẩm dịch của Bác chỉ là “Tỉnh ủy bí
mật” , Bác không dịch tác phẩm nào khác mà có thể là Bác lược dịch hay
tóm tắt, phóng tác một cuốn Lịch sử nào đó về Đảng Cộng sản (b) Liên Xô.
Vậy thì “Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng” nên hiểu như thế nào?
Bác
là người am hiểu sâu sắc văn hóa phương Đông, nhất là văn hóa Việt Nam.
Trong trước tác của Người, trong văn, thơ và cả nghị luận chính trị,
báo chí Bác đã sử dụng kho tàng tục ngữ, thành ngữ, ca dao, dân ca,
Truyện Kiều hết sức nhuần nhuyễn. Câu thành ngữ “Vững như bàn thạch” ai
cũng biết, không lẽ Bác không biết mà lại viết “Bàn đá chông chênh”?
Thực tế ở Pác Bó có cháo bẹ, rau măng, có suối Lê-nin, núi Mác và các tảng đá, khối đá
chứ không có cái Bàn đá nào cả để cho Bác đặt cái không có (bàn đá) bên
cạnh những thực thể có thật. Mà giả dụ bàn đá ở đây cũng là vật cụ thể
như cháo bẹ, rau măng, thì có khó gì khi ngồi viết (dịch sách), chỉ cần
kê thêm mấy mẩu đá, viên sỏi là hết “chông chênh”.
Như
vậy “Bàn đá” Bác dùng ở đây càng phải là một biểu tượng, nếu có một bàn
đá cụ thể thì ý nghĩa biểu tượng của bàn đá trong câu thơ vẫn lớn hơn
và “Bàn đá chông chênh” càng làm cho người đọc suy nghĩ.
Nhiều
nhà nghiên cứu văn thơ của Bác đã rút ra kinh nghiệm, “đọc Bác hiểu qua
văn bản, nhưng quan trọng hơn là hiểu ý Bác sau câu chữ, giữa khoảng
lặng của từ ngữ, giữa các dòng chữ Bác viết càng quan trọng hơn, bởi sự
kết hợp giữa lý và tình tạo nên minh triết Hồ Chí Minh” (2).
“Dịch
sử Đảng” - sử Đảng ở đây là sử Đảng nào? Trước cảnh nước mất, nhà tan,
nhân dân bị nô lệ dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp và triều
đình nhà Nguyễn gần 100 năm, Bác Hồ đã ra đi tìm đường cứu nước từ năm
1911, khi mới 21 tuổi. Những năm hoạt động cách mạng gian khổ và nguy
hiểm ở nhiều nước Pháp, Mỹ, Anh, Nga, Thái Lan… cuối những năm 1920
Người về Trung Quốc để “vừa nghiên cứu làm việc để sống, ông Nguyễn vẫn
ra sức làm việc cho Tổ quốc mình. Ông bắt đầu tổ chức đồng bào Việt kiều
ở Trung Quốc. Tổ chức này gọi là “Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng
đồng chí”. Để tuyên truyền, ông xuất bản một tờ tuần báo: Thanh
niên”(3).
Chính
“Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí” do Bác tổ chức là nòng cốt
của Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời tại Hương Cảng. Năm 1927, Bác viết
“Đường Cách Mệnh” làm tài liệu huấn luyện cho nhiều thanh niên ưu tú từ
trong nước sang đây và tác phẩm này là cơ sở để Bác viết “Chánh cương
của Đảng”, “Sách lược vắn tắt của Đảng”, “Chương trình tóm tắt của Đảng”
và “Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam”. Bác đã trình bày những
tài liệu quan trọng này trong Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
ngày 3-2-1930 do Bác tổ chức, triệu tập và chủ tọa, lúc đó Bác mang tên
là Nguyễn Ái Quốc.
“Chánh
cương vắn tắt của Đảng” nêu lên nhiều vấn đề về các phương diện xã hội
và cả các phương diện chính trị cũng như kinh tế. Trong đó toát lên vấn
đề độc lập dân tộc - “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa và bọn phong kiến”,
trong đó có: “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”, “Thâu tóm ruộng
đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo”, “Bỏ sưu
thuế cho dân cày nghèo”(4) là nội dung chủ yếu và quan trọng nhất.
Để
thực hiện được vấn đề độc lập dân tộc và hạnh phúc nhân dân, trong
“Sách lược vắn tắt của Đảng” Bác đã viết về lực lượng tổ chức và tham
gia cách mạng là quần chúng nhân dân đủ mọi thành phần, giai cấp, mọi
tầng lớp. Điều 4: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức,
trung nông, thanh niên, Tân Việt…để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp.
Còn với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ, và tư bản An Nam mà chưa rõ
mặt cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra làm cho họ đứng trung lập” (5).
“Điều
lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam” ghi rõ: 1. Tên: Đảng Cộng sản
Việt Nam. Trong “Chương trình tóm tắt của Đảng” cũng ghi rõ mục 2: Đảng
tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ
bọn địa chủ và phong kiến. Mục 4 ghi: Đảng lôi kéo tiểu tư sản, trí thức
và trung nông về phía giai cấp vô sản. Đảng tập hợp hoặc lôi kéo phú
nông, tư sản và tư bản bậc trung, đánh đổ các Đảng phân cách mạng như
Đảng Lập hiến…(6).
Hội
nghị thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương 3.2.1930 “có tầm quan trọng
ngang một Đại hội, vì nó đề ra đường lối, chiến lược và sách lược của
cách mạng Việt Nam và những nguyên tắc cơ bản về xây dựng Đảng” (7).
Các văn kiện trên đây đã được Hội nghị thành lập Đảng thông qua.
Như trên chúng ta biết, không hề có “bàn đá” nào ở Pắc Bó. “Chông chênh”- không vững chãi vì không có chỗ dựa chắc chắn (Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, H.1988).Vậy thì cái gì chông chênh ở đây?
Nửa
năm sau (tháng 10/1930), Trần Phú (một trong 14 thanh niên yêu nước
được cụ Phan Bội Châu chuyển giao cho Nguyễn Ái Quốc huấn luyện và học
tập “Đường Cách Mệnh”)(8) từ Liên Xô trở về đã triệu tập Hội nghị Trung
ương Đảng và xóa bỏ hoàn toàn các văn kiện vừa được thông qua trên đây.
Quyết định quan trọng nhất là: “a- Thủ tiêu chánh cương, sách lược và
điều lệ của Đảng”; “b- Bỏ tên Việt Nam Cộng sản Đảng” mà “đổi tên là
Đông Dương Cộng sản Đảng”. Hội nghị Trung ương do Trần Phú triệu tập
cũng quy kết Hội nghị thành lập Đảng ngày 3/2/1930 do Bác Hồ tổ chức là
“sai lầm về chính trị…sai lầm về sách lược…sai lầm về điều lệ và tên
Đảng…quên mất lợi ích đấu tranh giai cấp”(9).
Trần Phú đã nghiêm khắc phê phán Nguyễn Ái Quốc “chỉ lo đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp đấu tranh, ấy là một sự rất nguy hiểm”. Trong thư gửi Quốc tế Cộng sản ngày 17/4/1931, Trần Phú còn phê phán nội dung Hội nghị hợp nhất “mang nặng dấu ấn các tổ chức cách mạng cũ, các vấn đề cơ bản đều mâu thuẫn với đường lối Quốc tế cộng sản” (Văn kiện Đảng, tập II, tr.110-112). Thậm chí Hà Huy Tập còn gay gắt lên án: “...
Song các đồng chí chúng ta trong lúc này không được quên những tàn dư
dân tộc chủ nghĩa của Nguyễn Ái Quốc, các chỉ thị sai lầm của ông về
những vấn đề cơ bản của phong trào cách mạng… khuyến dụ một sách lược
cải lương và hợp tác sai lầm: trung lập hóa tư sản và phú nông, liên
minh với trung và tiểu địa chủ”. (Văn kiện Đảng, tập V, tr.204). Và khẩu hiệu “trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ” đã ra đời trong Phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931).
Cùng
với việc xóa bỏ các văn kiện trên đây của Đảng do Nguyễn Ái Quốc khởi
thảo, Hội nghị Trung ương (chỉ có Trung ương, không có đại biểu tham dự)
tháng 10/1930 xóa bỏ “Ban chấp hành Trung ương lâm thời do Trịnh Đình
Cửu làm Bí thư (10) và Trần Phú giữ chức Tổng Bí thư”, cũng đồng thời
thông qua “Luận cương chính trị” do Trần Phú vạch ra. Bản Luận cương này
cơ bản đã thay đổi những nội dung chính mà Nguyễn Ái Quốc và Hội nghị
thành lập Đảng 3/2/1930 đã thông qua. Nội dung và tính chất, mục đích
sách lược hành động của Đảng, tên Đảng phải thay. Vấn đề giai cấp và đấu
tranh giai cấp được đưa lên vị trí hàng đầu… “Trí thức, tiểu tư sản,
học sinh là hạng có xu hướng quốc gia chủ nghĩa, chúng nó đại biểu cho
quyền lợi cho tất cả giai cấp tư bổn bổn xứ chứ không phải chỉ bênh vực
quyền lợi riêng cho tiểu tư sản mà thôi”. Luận cương của Trần Phú còn
lên án từ “bọn Huỳnh Thúc Kháng” cho đến “bọn Nguyễn An Ninh”(11).
Dù
Bác đã cố gắng uốn nắn nhưng khởi nghĩa Nam Kỳ, khởi nghĩa Bắc Sơn, Xô
Viết Nghệ Tĩnh do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo vẫn nổ ra và đã thất
bại. Phong trào cách mạng Việt Nam chịu những tổn thất ghê gớm.
Rõ ràng “Sử Đảng” đã đi chệch hướng từ Hội nghị Trung ương tháng 10 năm 1930.
Cũng từ
đó, suốt 10 năm trời (1930-1940) và những năm tiếp theo Bác Hồ vẫn kiên
trì, bền bỉ lãnh đạo, uốn nắn, khắc phục hậu quả Hội nghị Trung ương
tháng 10 năm 1930. Bác lặn lội từ Liên Xô, Trung Quốc, Thái Lan... rồi
Bác bị mật thám Anh bắt ở Hồng Kông, nhờ luật sư Loseby mà thoát được
ngục tù và án tử hình của thực dân Pháp, để rồi “Ba mươi năm ấy chân
không mỏi/ Mà mãi bây giờ mới tới nơi”. Bác đã về nước trực tiếp lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Một trong những việc làm quan trọng nhất của Bác
là thành lập mặt trận Việt Minh (Việt Nam độc lập đồng minh Hội). Tổ
chức có nguồn gốc từ cụ Hồ Học Lãm, một nhà yêu nước không phải là cộng
sản, hoạt động trong Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch. Hội tập hợp mọi
thành phần, tầng lớp, giai cấp, mọi người Việt Nam để chuẩn bị giành
độc lập tự do cho dân tộc, đúng với cội nguồn “Phản đế đồng minh” mà Bác
đã nêu lên trong Hội nghị và tinh thần căn bản của các Văn kiện mà Bác
đã viết và thông qua ngày thành lập Đảng 3/2/1930.
Từ
năm 1941 đến 1945, Cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ, đã
khẩn trương chuẩn bị về mọi mặt để rồi chớp thời cơ, cả nước khởi nghĩa.
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Sau đó là cuộc kháng chiến
trường kỳ bảo vệ độc lập dân tộc. Năm 1946, Đảng Cộng sản Đông Dương tự
giải tán. Năm 1951, Đại hội Đảng lấy lại tên “Đảng Lao động Việt Nam” mà
không còn Đảng Cộng sản Đông Dương nữa. Bác nói “Đảng là Đảng Việt
Nam”, “Đảng của nhân dân Việt Nam”.
Vậy
câu thơ “Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng” cũng có thể được hiểu như tôi
đã trình bày ở trên. Lịch sử Đảng ta đã được Bác dịch thành công ;
“Dịch, tức là chuyển dịch, xê dịch (remove): thay đổi hoặc làm thay đổi
vị trí trong khoảng cách ngắn” (Từ điển Tiếng Việt, Sđd).
Ngày 2/9/2015
Chú thích:
(1)
: Tôi có đọc đâu đó, là cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản (Bonsevic) Liên Xô
bằng tiếng Trung Quốc được Bác rút gọn, phóng tác (adapt) và tóm tắt. Có
lẽ hợp lý hơn, vì “làm tài liệu học tập cho cán bộ” trong hoàn cảnh khó
khăn lúc bấy giờ không ai lại bê cả cuốn lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô,
mà “tài liệu học tập” thì phải ngắn gọn, cô đúc…là hợp với tác phong
của Bác.
(2) : Xem thêm Hoàng Chí Bảo, Minh triết Hồ Chí Minh, tạp chí Văn hóa học, Số 1.2012
(3) : Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Văn hóa Thông tin, 2001, tr129
(4) : Chánh cương vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh -Tuyển tập,Tập 1, Sđd. Tr465
(5) : Hồ Chí Minh, Sđd. Tr 647.
(6) : Hồ Chí Minh, Sđd. Tr 469.
(7) : Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tiểu sử và sự nghiệp, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng, Nxb Sự thật. Tr 38, 39, 40.
(8)
: Trong quá trình học tập, Bác và các đồng chí lãnh đạo chọn 5 người để
kết nạp vào “Thanh niên cộng sản đoàn” gồm Trần Phú, Nguyễn Văn Lợi,
Nguyễn Ngọc Ba, Phan Trọng Bình và tôi (tức Phan Trọng Quảng).
Lớp
học kết thúc thì tất cả anh em học viên đều được kết nạp vào “Thanh
niên cách mạng đồng chí hội”. Lễ kết nạp được tổ chức trước mộ Phạm Hồng
Thái” (Hoàng Thanh Đạm, Nguyễn Ái Quốc trên đường về nước, Nxb Lý luận
Chính trị, 2005. tr 218, tr 152).
(9)
: Văn kiện Đảng 1930 - 1940, Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng 1977, tr 84,
85 và 87 (theo Đào Phan, Tạp chí Xưa và Nay số 327 - 329, tháng 4-2009).
(10) : Hoàng Thanh Đạm, Nguyễn Ái Quốc trên đường về nước, Nxb Lý luận Chính trị 2005, tr 218, tr 152.
(11) : Đào Phan, Tạp chí Xưa và nay, Tài liệu đã dẫn.
Hạnh Liên
Hô hô, thế có nghĩa là BH đã "xê dịch" Lịch sử đảng ta???
Trả lờiXóa